Sau 360 ngày, những gì đăng lên đây sẽ tự động biến mất.

Gallery
Upload Photo & Post Posting List Tìm Bài Viết Đăng Bài mà Không Cần Đăng Kí Tên
ĐÔI MẮT MÙA XUÂN ???? Story #: 493
●Phạm Tín An Ninh  
Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ
nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được
mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn
trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi
tóc. Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi
dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một
cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ
biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán,
nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu
Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền
do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau
Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại
đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu
hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy
là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang
cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan
còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa. Sau
một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân
bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có
cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương
khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu
xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội
và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà
phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ
giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay
tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung
quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn
trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức
các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu. Phía dưới chân
đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường
chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa,
cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên
bọn tôi cũng không muốn bước vào. Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên
võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê
nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng
hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai
chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng
hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười
chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi
khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng
lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng
đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi
đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu
tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có
mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh
dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi
khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát
bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong
những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới
một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá
xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày
ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình
ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký
ức. Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi
anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm
thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần.
Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng
những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như
mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn
của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này.
Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào
một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu
mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo
cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận
ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm
cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong
cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh
hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng
cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường,
làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn
khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng
này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn
học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học
chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp
Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có
đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau. Từ khi
quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi
đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng,
không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân. Điều vui là lần nào ghé
lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu
nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc,
từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa
núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số
tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần
họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở
nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu
đang chờ. Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn
tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ
cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi
vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng
cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có
thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy,
vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng
lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng
cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im
lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm
tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để
có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm
trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng
quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh
đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly,
bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh
lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức
tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của
Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác
vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình
khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm,
bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe. Tôi kể cho ông quận
trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi
anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là
của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận
đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với
thầy trò suốt ngày hôm ấy. Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời
khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để
được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị
địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường
vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn
đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về
nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn
tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi
cũng rất bận với đồng đội của mình. Tiểu Khu cho biết đã có một đại
đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì
bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn
đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa
gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa
một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ
những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi
kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn
đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh
đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich
thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội
phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các
thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông
Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò
người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai
người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng. Sau vài ngày, tôi
được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy
bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi
ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị
thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây
hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường,
nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ
là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng
đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ
gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng
đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò
người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên
ả như mặt nược hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng
mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi,
nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ
viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng,
khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt
nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi. Sau khi xuất viện, được nghỉ
hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ
lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi,
trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không
có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo
học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị,
vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu
Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều
tới khóa học vừa qua.) Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về
Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên
Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một
Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô
sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn
Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với
nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu
vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức,
anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng
đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy
bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế,
biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu
với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì
nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống
chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi
chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy
giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai
người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng
lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và
trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người.
Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của
trường. Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi
biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô
ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái
con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường,
bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi
ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm
quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ
khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi
mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man
mác! Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn
cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé
người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn
sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng
còn tha thiết tới điều gì. Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một
số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía
sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng. Mới đây tôi bất
ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có
kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của
Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi
các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và
thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người
kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của
người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ
đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng
bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại
hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống
từ nhà máyAluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét
khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy
hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an
với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những
người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước
tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình.
Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính
là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này
là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng
đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã
nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần
tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn
ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và
nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn
nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng,
anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây
giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người
viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều
ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn
bình an vĩnh cữu. Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người
trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé
người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi
mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy
vọng. Đôi mắt của mùa Xuân. ●Phạm Tín An Ninh
Mọi Đăng Tải Tự Động Biến Mất Trong 330 Ngày